Nhiều người sống ở thế kỷ 21 nhưng vẫn tiếp tục ôm lấy những thứ “tín ngưỡng”, “phong tục” mà bản chất thực ra là mê tín dị đoan. Nói về mê tín, mình sẽ không chỉ đề cập đến những niềm tin mà đa phần mọi người đều biết là mê tín rồi, ví dụ như “bị bệnh thì cúng bái chứ không đi bệnh viện”. Mà mình sẽ đi xa hơn, bao hàm tất cả những niềm tin, phong tục mà hay được biện hộ dưới cái mác “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” và gọi đó là mê tín. Một số ví dụ là: “đầu tháng không ăn thịt chó”, “đầu năm không cho vay/đi vay tiền”, “mua nhà, chuyển nhà phải cúng bái”. Mình gọi những hoạt động này là “thờ kiêng” cho ngắn gọn.
Thế nào là mê tín? Tra vài từ điển tiếng việt, thì “mê tín” được định nghĩa như sau:
- tin một cách mù quáng, thiếu suy nghĩ
- tin một cách mù quáng vào thần thánh, ma quỷ, số mệnh, và những điều huyền hoặc
Tại sao mình bảo những người thờ kiêng là mê tín? Vì tất cả những người tin vào thờ kiêng đều có chung đặc điểm là “tin một cách mù quáng, thiếu suy nghĩ”. Nhưng điều nực cười là, họ lại tưởng mình là người biết suy nghĩ. Khi bị chỉ trích, họ thường đưa ra những luận điểm chính sau đây:
- Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Làm gì có ai chứng minh được nó là sai/không có tác dụng.
- Nếu không có tác dụng thật, thì cũng có tác dụng về mặt tinh thần.
- Đấy là sở thích của người ta. Người ta thích thì làm, ảnh hưởng gì đến mình mà chỉ trích?
Những luận điểm này nghe thì có vẻ hợp lý và khó bác bỏ. Nhưng ở bài này, mình sẽ phân tích từng luận điểm, chỉ ra sự sai lầm và không nhất quán trong từng cái. Để mọi người có thể thấy rõ tại sao thờ kiêng là mê tín, và ta nên làm gì với nó.
Mình sẽ bắt đầu với luận điểm thứ 1: có thờ có thiêng, có kiêng có lành.
1. Thờ kiêng có thiêng lành thật không?
Câu chuyện thường diễn biến như sau:
A: Ê tao sắp đi đi xa/chuyển nhà đấy
B: Thế hả? Mày đã thắp hương/cúng thần/phật trước/sau khi đi xa/chuyển nhà chưa?
A: Sao tao lại phải cúng? Phí thời gian vl. Nhà tao cũng hết hoa quả/cơm thịt/tiền rồi.
B: Ôi mày phải đi chợ mua ít hoa quả rồi cúng ngay đi. Cúng trước khi đi xa/chuyển nhà là bắt buộc đấy. Ai chả cúng trước khi đi xa/chuyển nhà. Có thờ có thiêng có kiêng có lành.
A: Mà làm sao mày biết là thờ cúng có tác dụng?
B: Làm sao mày biết nó không có tác dụng? Đã có ai chứng minh được nó không có tác dụng chưa? Phải có tác dụng thì mọi người mới làm chứ?
Có 2 phần trong câu trả lời của B. Phần sau, “Phải có tác dụng thì mọi người mới làm chứ?”, khá là dễ để thấy là sai. Việc mà nhiều người trước giờ vẫn làm làm chưa chắc đã là đúng. Trước, người ta cúng sao giải hạn, tin vào số mệnh, coi tay xem tướng, dùng bùa chú. Giờ, đa phần người ta bảo những cái đấy là mê tín, khi người ta hiểu biết nhiều hơn. Vậy làm sao có thể chắc chắn là những cái thờ kiêng nonsense khác không bị coi là mê tín dị đoan khi người ta biết nhiều hơn nữa? Nếu có những thứ cản trở việc con người nói chung gia tăng hiểu biết, làm họ đắm chìm trong sự ngu dốt thì chắc chắn một trong những thứ đấy là thói quen suy nghĩ kiểu: điều nhiều người trước giờ vẫn tin là auto đúng. Ừ, người ta cũng từng tin mặt trời quay quanh trái đất mấy nghìn năm mà :))
Phần đầu trong câu trả lời của B, “Đã có ai chứng minh được nó không có tác dụng chưa?”, khó để chỉ ra cái sai hơn. Mình nghĩ đây cũng là lý do chính mà thờ kiêng vẫn được nhiều người tin vào, bởi không nhiều người bác bỏ được luận điểm này. Mình xin phép đi sâu hơn, vào vấn đề của tri thức (epistemology) và nghĩa vụ chứng minh (burden of evidence) để làm rõ tại sao luận điểm này, nghe thì có vẻ hợp lý, nhưng thực chất xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của B về tri thức nói chung.
Thế nào là tri thức?
Tri thức là hiểu biết về thế giới xung quanh. Để một thứ được coi là tri thức, nó phải có tính tổng quát, giúp người ta hiểu được về các sự vật sự việc liên quan và áp dụng được vào các trường hợp cụ thể.
Khi B nói về vấn đề thờ kiêng, B không nói dưới góc độ trải nghiệm cá nhân (B đã từng thờ và thấy nó hiệu quả cho lần thờ cụ thể thứ x của B), bởi làm đ có ai quan tâm về việc lần thờ thứ x của B có hiệu quả hay ko. Ở đây A và B quan tâm đến vấn đề thờ kiêng vì B đang trình bày nó dưới dạng tri thức - thờ kiêng có hiệu quả nói chung và sẽ có hiệu quả trong trường hợp của A.
Ở đây ta thấy là tri thức, để mà có giá trị thì phải có tính tổng quát để đưa ra dự đoán về những trường hợp cụ thể trong tương lai (nếu A thờ cúng thì sẽ gặp may và không gặp hạn). Dùng từ chuyên ngành thì cái theory của B phải có khả năng đưa ra observable, refutable prediction để được coi là một theory có khả năng đóng góp cho tri thức nhân loại (hay có thể mang ra làm lời khuyên cho người khác).
Nhưng luận điểm của B lại đang phủ nhận chính tính tổng quát và khả năng đưa ra dự đoán cụ thể đó. “Không ai chứng minh được thờ kiêng là không hiệu quả”, đồng nghĩa với việc: hiệu quả của thờ kiêng không đủ cụ thể và có nhiều cách hiểu, khiến cho không ai biết được cái B nói là đúng hay sai. Một thứ không biết được đúng hay sai thì có giá trị gì?
Xin được lấy ví dụ như sau. B bảo thờ kiêng giúp B đi ỉa thường xuyên hơn. Với B nhuận tràng là tốt. Nhưng A có thể không đồng ý. A bảo đi ỉa nhiều mất nước. Vậy ta định nghĩa thế nào là “có hiệu quả, có thiêng, có lành”? Đi ỉa nhiều có tính là có thiêng có lành hay không? Ỉa với tần suất bao nhiêu? Ỉa như vậy có tốt cho thể trạng của A hay không, hay chỉ tốt cho B thôi? Ở đây ta gặp vấn đề về mặt định nghĩa. Nếu không định nghĩa được “thiêng lành” thì làm sao để biết được “thờ kiêng” có mang lại “thiêng lành” hay không?
Đi tiếp ví dụ trên, nếu A tin B và tiến hành thờ kiêng. A thấy không những không nhuận tràng mà còn bị táo bón. A hỏi B, thì B biện hộ là: thờ kiêng có giúp A nhuận tràng thêm một chút đấy, nhưng mà do A ăn nhiều thịt ít rau quá nên một chút là không đủ để hết táo bón. Hoặc B sẽ bảo là: “thiêng lành” đối với B là nhuận tràng nhưng đối với A là lợi tiểu (“từ lúc mày thờ tao thấy mày đi đái nhiều lần vl”). Ở đây ta gặp vấn đề về tính cụ thể của dự đoán. Qua việc biện hộ cho việc thờ kiêng của mình, B đã làm cho tri thức “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” của B hoàn toàn vô dụng. Khi một thứ kiểu gì cũng có tác dụng, nhưng không biết tác dụng đấy là gì, và thế nào là có tác dụng, thì nó giúp ích gì được cho ta?
Mình nghĩ những người như B nên nghiền ngẫm kỹ hơn về vấn đề này (chẳng hạn trong lúc đi ỉa) trước khi đi khuyên người khác.
Ai phải là người đi chứng minh?
Giả sử B tránh được tất cả những sai lầm lập luận về tri thức nói trên, và đưa ra được một theory cụ thể về việc thờ kiêng và đi ỉa, chẳng hạn: một người khi tiến hành thờ 1 ngày 3 nén hương ở bàn thờ thiết kế theo kiểu X sẽ giúp tần suất đi ỉa của người đấy tăng 1.5 lần. Rất dễ thấy sự vô lý và ngu xuẩn của theory như vậy, và đó cũng là lý do những người thích thờ kiêng thường nói theo kiểu mập mờ “không thể chứng minh được là sai” ở trên.
Nhưng nếu B thật sự tin vào một theory đi ỉa như vậy, và bảo A “sao mày không thử đi xem tao nói có đúng hay không?”. Ý nói A nếu không tin thì phải đi chứng minh là B sai. Cái cần phải xem xét ở đây là: ai là người phải đi chứng minh?
Khi ai đó nói cái gì đấy ngược lại với common sense thì người đó phải là người chịu tránh nhiệm chứng minh là mình đúng, không phải là người nghe. B phải là người đi thực hiện nghiên cứu về tác dụng của thờ kiêng đối với đi ỉa, để chứng minh rằng thờ kiêng có hiệu quả, trước khi cố gắng thuyết phục A. Chứ A không phải là người cần đi chứng minh trước khi phủ nhận vào những cái ngu xuẩn, vô lý như vậy.
Tại sao mình lại nói thờ kiêng đi ngược lại common sense? Thế nào là common sense? Nhiều người coi thờ kiêng là common sense vì “nhiều người làm thế”. Nhưng như đã ở trên, nhiều người làm thế không có nghĩa là việc đấy đúng. Hơn thế nữa, đa phần người thờ kiêng đều có một cách phân loại không nhất quán về thế nào là common sense. Bị đau ốm đi bệnh viện là common sense, nhưng thờ thần cúng tổ xin sức khỏe, chóng khỏi bệnh cũng là common sense? Sao khi bị đau ốm không ở nhà thờ cúng luôn chứ đừng đi bệnh viện nữa? Muốn giàu sao không ở nhà cúng thần tài, lao đi kiếm tiền làm gì cho khổ?
Vừa rồi mình đã nói về tác dụng của thờ kiêng đối với thế giới vật chất - thờ kiêng có thiêng lành thật không. Tiếp theo mình sẽ bàn về tính hữu dụng của thờ kiêng về mặt tinh thần.
2. Thờ kiêng giúp người ta an tâm như thế nào?
Tiếp tục câu chuyện của A và B. Sau khi A gắt quá và expose sự yếu kém của luận điểm 1 của B, B sẽ bám víu vào luận điểm 2 như sau:
B: Ừ thì chưa chắc thờ kiêng đã giúp mày gặp thiêng lành. Nhưng mà ít nhất thờ kiêng cũng giúp mày an tâm. Lỡ có xảy ra gì thì cũng không tự trách mình chưa thờ kiêng.
Ở đây B đang dùng luận điểm về utility. Ý là thờ kiêng dù có vô dụng, không đem lại thiêng lành thì cũng giúp người làm yên tâm hơn và không hối hận, vì ít nhất mình cũng đã thờ kiêng rồi. Luận điểm này bỏ qua một số vấn đề cơ bản như sau:
-
Chi phí cơ hội: thờ kiêng không phải là không có chi phí. Khi thờ kiêng ta mất thời gian, phí tiền bạc, hại sức khỏe (khi quỳ cúng hàng giờ, hay không được đớp thịt chó vào đầu tháng). Chưa kể, với mình điều đặc biệt quan trọng mà phải hi sinh khi thờ kiêng là sự tự do làm thứ mình muốn. Làm gì cũng phải nghĩ xem liệu có đen không, có động chạm đến cụ kị nhà thằng nào đã chết từ đời tám hoánh rồi không? Sao tìm hiểu luôn xem làm thế có trái với tín ngưỡng người da đỏ da đen ở châu lục khác luôn, để mà kiêng luôn cho yên tâm? Liệu tất cả thời gian, tiền bạc, sức khỏe, sự tự do đấy có đáng cái sự “an tâm” mà thờ kiêng mang lại không?
-
Trị ngọn mà không trị gốc của sự bất an: xin được trích lời các bậc hiền triết, là bình an phải ở trong tâm. Cái tâm ngu, tâm ác, tâm yếu đuối thì nghe cái phí lý gì cũng tin, sống ngày nào cũng sợ quả báo, làm việc gì cũng sợ không thành. Để yên tâm, tự tin hơn mà sống thì đừng nên phí thời gian công sức vào thờ kiêng, mà hãy làm sao để bớt ngu, bớt ác, bớt yếu đuối đi: dành thời gian trau dồi kiến thức, sống tốt, tự tin với chính mình.
3. Thờ kiêng có phải là sở thích cá nhân?
Một câu được nhiều người sử dụng khi đuối lý đấy là: tao thích làm gì thì kệ tao, ảnh hưởng gì đến mày. Mình từng nói về vấn đề sở thích một cách tổng quát ở một bài khác. Ở đây mình sẽ tập trung vào “sở thích” thờ kiêng.
Người ta có thật sự coi thờ kiêng là sở thích cá nhân không? Mình nghĩ là không, đặc biệt đối với những người thích khuyên người khác khi nào nên thờ kiêng, và thờ kiêng như thế nào. Như đã trình bày ở luận điểm 1, khi B khuyên A nên thờ kiêng, B không nói về nó như một trải nghiệm cá nhân hay một sở thích cá nhân. B nói về nó như một tri thức, áp dụng tốt cho trường hợp của B, và sẽ áp dụng tốt cho trường hợp của A và những người khác. Khi đã là một tri thức thì ta phải xem xét tính đúng sai của nó. Và những đứa như B, thích đi tuyên truyền những cái sai, vô dụng, làm người ta tốn thời gian, tiền bạc, sức khỏe, sự tự do thì đáng bị ăn chửi.
Và đương nhiên, sở thích không phải cái nào cũng có lợi đối với người có sở thích đó và những người xung quanh. Mỗi người chúng ta không sống trong lỗ chân không. Ta sống bên cạnh người khác, tương tác với người khác, gây ảnh hưởng đến người khác. Thời gian, tiền bạc, công sức phung phí cho việc thờ kiêng là thời gian, tiền bạc, công sức không được dành cho gia đình, bạn bè, xã hội. Sống làm nô lệ của những nỗi lo sợ, của những niềm tin không có cơ sở, người ta lan truyền nỗi sợ, sự ngu dốt đấy cho gia đình, bạn bè, con cháu mình. Cái vòng lặp đấy biết bao giờ mới kết thúc, nếu không có người chỉ ra thế nào là đúng, thế nào là nên, against tất cả những sự mù quáng quanh họ?
Kết luận
Trái với suy nghĩ của nhiều người, nhân loại tiến lên không nhờ số lượng luận điểm, theory, niềm tin. Để gia tăng tri thức và tiến lên như một con người, một cộng đồng có khả năng suy nghĩ, ta phải bắt đầu từ việc phủ nhận những luận điểm sai lầm, nông cạn, giả tri thức. Phải có những người dám nghĩ sâu, dám đứng lên phải đối, thay đổi, xóa bỏ những hành động sai lầm, những niềm tin không có cơ sở, thì mới có chỗ cho những suy nghĩ, hành động đúng đắn và tốt đẹp hơn.